Chùa Ba la mật tổ chức Lễ Húy nhật cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Trì
Chùa Ba la mật tổ chức Lễ Húy nhật cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Trì

Tiểu sử

Sáng 14/11/2024 (14.10 Giáp Thìn) tại chùa Ba la mật đã trang nghiêm diễn ra lễ Húy nhật cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Trì.

Dâng hương tưởng niệm và cử hành buổi lễ có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Thanh, UVTT HĐCM GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT.Huế; Chư tôn đức Giáo phẩm Chứng minh, Chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế cùng Chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni các Tổ đình, Tự viện, Niệm Phật Đường cùng đạo hữu Phật tử các giới.

Chư Tôn đức Giáo phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh đã thành tâm dâng hương tưởng niệm, HT.Thích Giác Đạo, UV HĐTS GHPGVN, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Nghi lễ Trung ương, Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng Ban Pháp chế GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế đã niêm hương và cử hành nghi lễ Cúng Ngọ.

HT.Thích Giác Đạo cử hành buổi lễ

Hòa thượng Thích Đức Trì húy Châu Văn Trì, Pháp danh Nguyên Định, Pháp tự Đức Trì, thuộc dòng Pháp Lâm tế đời thứ 44; sinh ngày 10 tháng Giêng năm Mậu Thìn (01.02.1928) tại xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Châu Văn Cương Pháp danh Tâm Trai, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cháu Pháp danh Tâm Ý. Gia đình Hòa thượng có 8 anh em, Hòa thượng là con thứ 4. Xuất thân trong một gia đình nhiều đời tin Phật, lại ở gần chùa nên chí xuất gia rất lớn.

Năm 1943, ngài đầu sư học đạo với Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ tại Tổ đình Báo Quốc, Huế.

Năm 1947, được thọ Sa-di giới, pháp tự Thích Đức Trì. Năm ngài 23 tuổi (1951), được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại “Hộ Quốc Giới đàn Báo Quốc”, Huế.

Năm 1953, vâng lệnh Bổn sư nhận nhiệm vụ Trú trì Tổ đình Ba-la-mật, Huế. Nơi đây do Đại sư Viên Giác khai sơn, nơi đầu tiên cố Hòa thượng Thích Viên Thành đầu sư học đạo – một Đại sư nổi tiếng trong làng thơ văn Huế, đã để lại “Lược Ước Tùng Sao Thi tập” rất có giá trị và sau này là Tổ khai sơn chùa Tra Am Huế.

Vốn ảnh hưởng đạo phong của chư Tổ, đặc biệt trực tiếp là cố Hòa thượng Thích Trí Thủ nên Hòa thượng đã sống một cuộc đời bình dị nhưng khá nghiêm túc, một mặt lo việc tu trì giới luật, mặt khác ngài đem hết khả năng phụng sự Chánh pháp.

Pháp nạn 1963, Hòa thượng là thành viên tích cực vận động phong trào đấu tranh ở nông thôn, nhất là tại huyện Phú Vang nơi địa phương của Hòa thượng. Sau pháp nạn, năm 1965, Hòa thượng được cử nhiệm giữ chức vụ Chánh Đại diện Giáo hội huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nhờ thế mà các đơn vị Giáo hội Phật giáo địa phương cùng gia đình Phật tử tại đây không ngừng đi lên, góp phần không nhỏ cho sự lớn mạnh của Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Năm 1982, Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập, Hòa thượng được Đại hội tín nhiệm bầu làm Ủy viên Ban Trị sự Phật giáo tỉnh kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Phú Vang. Năm 1992, Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ III tại Thủ đô Hà Nội, Hòa thượng được đắc cử vào Hội Đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đồng thời được Đại hội tấn phong lên ngôi vị Hòa thượng. Năm 1995, Hòa thượng được cung cử giữ chức vụ Phó Trưởng ban Trị sự Phật giáo Tỉnh. Năm 1997, Đại hội Phật giáo Tỉnh được tổ chức, Hòa thượng lại được Đại hội tín nhiệm lưu nhiệm Hòa thượng vẫn trong chức vụ Phó Trưởng ban của Phật giáo Tỉnh. Hòa thượng cũng đã được Giáo hội mời làm Tôn chứng cho nhiều Đại giới đàn ở trong Tỉnh cũng như một số Tỉnh Thành khác.

Đối với ngôi Tổ đình Ba-la-mật, Hòa thượng đã nỗ lực hết mình trong việc duy trì và phụng sự: Tháng 4 năm 1973, Hòa thượng đã sửa lại Tăng xá, xây Điện Quán Thế Âm, đúc Đại Hồng chung năm 450 kg, cao 1,55m. Nổi bật nhất vào những năm cuối đời, Hòa thượng đã cùng môn phái, thập phương thiện tín xây dựng lại toàn bộ ngôi Phạm Vũ, dựng tượng đài Tổ khai sơn, trang nghiêm kỷ niệm 100 năm ngày Giỗ Tổ để báo đáp thâm ân.

Xuất phát từ tinh thần tu học và phục vụ Chánh pháp suốt cả cuộc đời Hòa thượng tuy không như các bậc Đại sư tiền bối làm Thanh Trụ cho Phật pháp hay như một ngôi sáng trên nền trời xanh, nhưng ít ra cũng làm được ngọn đèn cho lữ khách trong cảnh đêm trường, Giáo hội Trung ương đã cảm thông sâu sắc, năm 1998 đã khen ngợi và tặng bằng “Tuyên Dương Công Đức”.

Những ngày cuối cùng.- Như linh cảm được cơn vô thường đến, Hòa thượng đã gặp gỡ các huynh đệ đồng Sư, trao đổi tâm sự xin được gửi nắm xương tàn nơi chốn Tổ.

Ngày Rằm tháng 10 năm Tân Tỵ (2001) lúc 18h35, sau cơn bệnh Hòa thượng đã an nhiên viên tịch. Hưởng thọ 73 tuổi.

 

Ảnh: Đức Phú
Xem cỡ chữ: