menu_open
Lễ Húy nhật Thiền sư Từ Lâm, Tổ khai sơn chùa Từ Lâm
13/04/2025 2:25:31 CH
Xem cỡ chữ:
Sáng 12/4/2025 (15.3 Ất Tỵ) tại chùa Từ Lâm (phường Thủy Xuân, quận Thuận Hóa, thành phố Huế) đã trang nghiêm diễn ra lễ Húy nhật Thiền sư Từ Lâm, Tổ Khai sơn chùa Từ Lâm.
Chư Tôn đức thành tâm dâng hương tưởng niệm
Chư Tôn đức thành tâm dâng hương tưởng niệm

Dâng hương, đảnh lễ tưởng niệm có Trưởng lão Hoà thượng Thích Chơn Tế, Thành viên HĐCM GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN thành phố Huế; Trưởng lão Hòa thượng Thích Chơn Hương, Thành viên HĐCM GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN thành phố Huế; Trưởng lão Hòa thượng Thích Tánh Tịnh, Chứng minh BTS GHPGVN thành phố Huế; Trưởng lão Hoà thượng Thích Quán Chơn, Chứng minh BTS GHPGVN thành phố Huế; HT.Thích Khế Chơn, Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, Trưởng BTS GHPGVN thành phố Huế; HT.Thích Tịnh Quang, Phó Trưởng Ban Trị sự GHPGVN thành phố Huế; chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni các tổ đình, chùa, Niệm Phật đường cùng đạo hữu Phật tử các giới.

TT.Thích Lương Nguyên niêm hương bạch Phật, cử hành nghi lễ

Tài liệu về Tiểu sử của Từ Lâm Lão Tổ (theo sách Chư Tôn thiền đức & Cư sĩ hữu công Phật giáo Thuận Hóa do HT.Thích Trung Hậu và HT.Thích Hải Ấn biên soạn năm 2011):

Về Thiền sư Từ Lâm cũng vậy. Cho đến nay chúng ta chưa tìm thấy một tài liệu nào viết về lịch sử của Ngài. Một tài liệu xưa nhất và cũng duy nhất, hiện nay đang còn để chúng ta có thể sử dụng được, là bài văn bia của Tổ sư Liễu Quán, dựng tại tháp ngài trên núi An Cựu, cách Thiên Thai Thuyền Tông Tự (chùa Thuyền Tôn) khá xa. Bài văn đó do một nhà sư Trung Hoa soạn vào tháng Tư năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748) sau khi Tổ sư Liễu Quán viên tịch được 5 năm; có một câu: "... Năm Đinh Sửu (1697), thọ Cụ túc giới với Từ Lâm Lão Hòa thượng; năm Kỷ Mão (1699), Ngài đi tham cứu khắp nơi, ăn uống rất đạm bạc...". Như thế, rõ ràng Thiền sư Từ Lâm đã khai sơn thảo am trước năm 1695, là năm ngài Thạch Liêm mở giới đàn Thiền Lâm rất lâu. Có thể cùng lần với Thiền sư Giác Phong ở núi Hàm Long. Trong bia ở tháp Tổ sư Liễu Quán, có nói đến Tế Viên Hòa thượng, Giác Phong Lão tổ, Trường Thọ Thạch Lão Hòa thượng, Từ Lâm Lão Hòa thượng, Tử Dung Hòa thượng. Nghiên cứu cách xưng hô này cho thấy: Ngài Giác Phong là vị cao niên nhất trong giai đoạn từ 1691 đến 1702, vì được dùng chữ "Lão tổ"; ngài Thạch Liêm và ngài Từ Lâm được dùng "Lão Hòa thượng". Vào năm 1697, ngài Thạch Liêm được 64 tuổi; tuổi được xưng "Lão Hòa thượng", thì chắc Ngài Từ Lâm cũng xấp xỉ từ 64 đến 66 tuổi, nên mới xưng "Lão Hòa thượng" như đối với ngài Thạch Liêm.

Dù sao đây cũng là một giả thuyết tìm hiểu gián tiếp mà không có gì chính xác được. Một điểm nữa là câu văn bia: 丁丑年禮慈林老和尚圓具足戒"Đinh Sửu niên, lễ Từ Lâm lão Hòa thượng viên Cụ túc giới"; thì không biết việc tổ chức truyền giới như thế nào. Hai năm về trước, đại giới đàn của ngài Thạch Liêm tổ chức ở thiền viện Thiền Lâm, chỉ cách thảo am ngài Từ Lâm có một đoạn đường ngắn. Thế thì, ngoài ngài Từ Lâm ra, còn có các vị nào đã dự trong lễ truyền giới cho Tổ Liễu Quán? Không làm sao biết được, vì không có sách sử nào nói đến. Cho nên ngoài Tổ Liễu Quán, hậu thế chúng ta không biết gì về Tổ Từ Lâm hơn. Sau khi thọ Tỳ-kheo giới với Tổ Từ Lâm, Tổ Liễu Quán đã ở lại với bổn sư được ba năm (1697-1699). Theo văn bia đã ghi, chỉ chưa đầy ba năm, Tổ Liễu Quán đã ra đi khỏi Tổ đình. Vì sao có sự kiện như thế xảy ra được? Sự kiện này chỉ có hai điều kiện sau đây: 1. Nếu giữ đúng tinh thần giới luật thì Từ Lâm Lão Hòa thượng đã viên tịch, công phu tu tập bị trở ngại, nên Tổ Liễu Quán mới được phép rời Tổ đình của bổn sư để đi tham lễ một thầy khác; 2. Nếu theo “Thiền” thì Tổ Liễu Quán có thể xin đi và được thầy cho đi. Nhưng trường hợp này thì bổn sư của ngài là Từ Lâm Lão Hòa thượng phải giới thiệu nơi cho đệ tử mình đến tham lễ. Đằng này, văn bia cho biết Tổ Liễu Quán nghe ngóng, đi tìm hiểu khắp rừng Thiền Thuận Hóa, mới được biết Minh Hoằng Tử Dung là người giỏi dạy người ta tham thiền. Sự kiện này nói lên tình trạng không có thầy chỉ dẫn. Thế thì, phải chăng Từ Lâm Lão Hòa thượng đã viên tịch trong khi Tổ Liễu Quán không hề chuẩn bị sự rời thầy ra đi, mà buộc phải ra đi vào năm 1699 này?

Năm Nhâm Ngọ (1942), trong bộ Việt Nam Phật giáo sử lược, Hòa thượng Mật Thể khi viết về Tổ Liễu Quán, có nói: “Năm Đinh Sửu (1697), Ngài thọ Cụ túc giới với ngài Từ Lâm Lão Hòa thượng (cũng là người Trung Quốc, mộ Ngài nay còn ở chùa Từ Lâm, gần nhà máy nước ở Huế)”. Câu văn chú giải trong vòng đơn có hai điểm cần lưu ý: Thứ nhất, Từ Lâm Lão Hòa thượng là người Trung Hoa, rõ ràng thế rồi. Thứ hai, Hòa thượng Mật Thể đã dùng chữ "mộ" chứ không phải là "Lăng" hay "Tháp". Có thể khi viết câu đó, Hòa thượng đã theo câu chú giải số của Louis Sogny viết trong bài: Le premier annamite consacré supérieur bonzerie par des Nguyễn - Son tombeau. Câu ấy thế này: “Chinois également. Son tombeau est situé à la pagode Từ Lâm près des filtres de l'Usine des Eaux de Huế”. Nhà máy nước Huế do kiến trúc sư người Pháp là Bossard thực hiện từ năm 1909 đến năm 1911 thì hoàn thành. Trong khi xây dựng nhà máy nước, người Pháp đã ban đất vùng đồi phía sau chùa Từ Lâm hiện nay để làm mặt bằng. Trong khi thực hiện công việc, rất có thể người Pháp đã làm hỏng phần tháp của Từ Lâm Lão Hòa thượng, nếu ngày xưa đã có tháp Ngài ở vùng này. Hiện nay ở phía tây đồi Quảng Tế, cạnh nhà máy nước còn dấu tích một nền vuông, có thành trong, thành ngoài chìm dưới đất, ống nước như khuỷu tay đặt lên trên. Rất có thể đây là cổ tháp của Từ Lâm Lão Hòa thượng ngày xưa chăng?


HT.Thích Huệ Phước, trú trì chùa Từ Lâm cùng chư Tôn đức trì tụng Kinh Di giáo cầu nguyện

Lạc Lạc, Anh Quốc