Ngài người họ Hồ, thế danh là Hữu Vĩnh. Sinh giờ Tỵ, ngày 18 tháng 5 năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868). Quán Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Triệu Phong - Quảng Trị. Xuất gia tại chùa Báo Quốc, năm 13 tuổi, thờ Hòa thượng Diệu Giác làm Thầy. Năm Đinh Hợi, triều Đồng Khánh (1887), thọ Sa-di. Năm Thành Thái thứ 6, Giáp Ngọ (1894), thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Báo Quốc. Năm ấy Ngài được Bổn sư trao Kệ phú Pháp, húy là Thanh Ninh, hiệu là Tâm Tịnh. Kệ:
河 清 寧 密 四 方 安
有 永 心 心 道 即 閒。
心 似 菩 提 開 慧 日
包 含 世 界 如 是 觀。
Phiên âm: Hà thanh ninh mật tứ phương an,
Hữu vĩnh tâm tâm đạo tức nhàn.
Tâm tợ Bồ-đề khai tuệ nhật,
Bao hàm thế giới như thị quan.
Nguyễn Lê Châu dịch:
Sông trong yên lặng bốn phương an,
Vĩnh viễn tâm tâm đạo ấy nhàn,
Tâm tựa bồ-đề soi mặt nhật,
Một bầu thế giới chứa muôn vàn.
Sau đó Ngài được Bổn sư cho lên Từ Hiếu để tham học với Hòa thượng Cương Kỷ. Khi Hòa thượng viên tịch, Ngài được bảo cử làm Trú trì chùa này. Năm Nhâm Dần (1902), Ngài xin thôi trú trì ở Từ Hiếu, về ấp Thuận Hòa thuộc Dương Xuân lập am để tĩnh tu, gọi là Thiếu Lâm Trượng Thất. Năm Duy Tân thứ 5 (1911), Ngài đổi thành Tây Thiên Phật Cung. Về sau được "Sắc tứ Tây Thiên Di-Đà Tự" - năm Quý Dậu (1933) triều Bảo Đại.
Trong thời gian khai sơn chùa Tây Thiên này, Ngài tiếp tục truyền thụ tâm ấn cho các đệ tử, kế tục truyền thống của Bổn sư có chín vị đệ tử “Cửu Tâm”, còn Ngài thì đào luyện 9 vị đệ tử mang chữ Giác thành “Cửu Giác”. Đó là Hòa thượng Giác Tiên (khai sơn chùa Trúc Lâm), Hòa thượng Giác Nguyên (kế thừa tổ đình Tây Thiên), Hòa thượng Giác Nhiên (Tọa chủ tổ đình Thuyền Tôn – Đệ nhị Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất), Hòa thượng Giác Viên (khai sơn chùa Hồng Khê), Hòa thượng Giác Hải (khai sơn chùa Giác Lâm), Hòa thượng Giác Bổn (trụ trì chùa Từ Quang), Hòa thượng Giác Ngạn (trụ trì chùa Kim Đài), Hòa thượng Giác Hạnh (khai sơn chùa Vạn Phước), Hòa thượng Giác Thanh tức Hòa thượng Đôn Hậu (trụ trì chùa Linh Mụ) để trở thành những vị lương đống cho Giáo hội về sau.
Với tài đức song toàn, giới hạnh túc nghiêm, uy tín Ngài mỗi lúc một vang xa.Lúc bấy giờ nơi triều đình Huế, vua Khải Định biết đến lấy làm tôn trọng và mến mộ. Nhà vua đã cử Ngài giữ trọng trách Tăng Cang chùa Diệu Đế để xiển dương đạo pháp. Tuy vậy, Ngài vẫn ở chùa Tây Thiên chuyên cần lo việc mở lớp giáo huấn các đệ tử xuất gia và tại gia.
Vào đại lễ Phật đản năm Giáp Tý (1924), Ngài đứng ra tổ chức trọng thể Đại giới đàn tại chùa Từ Hiếu trong bốn ngày: mồng 8, 9, 10 và 11 tháng Tư âm lịch. Trong Đại giới đàn này, Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng, số giới tử thọ giới lên đến 450 vị, trong đó có 300 Tăng Ni thọ Đại giới.
Ngày 06 tháng 3 năm Mậu Thìn, Bảo Đại thứ 3 (1928), Ngài thị tịch. Ngài thuộc đời 41 dòng Lâm Tế, là Tổ khai sơn chùa Tây Thiên Di-đà; thọ 59 tuổi đời, có 39 hạ lạp.