Dâng hương tưởng niệm và cử hành buổi lễ có Chư tôn đức Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP Huế; chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN TP Huế; chư tôn đức Tăng Ni các tổ đình, tự viện, thiền viện, tịnh xá, tịnh thất cùng đạo hữu Phật tử các giới.
Thượng tọa Thích Lương Nguyên, Trưởng ban Nghi lễ GHPGVN TP. Huế cùng chư Tôn đức đã cử hành nghi lễ cúng Ngọ.

Hòa thượng Thích Quang Nhuận sách tấn hàng đệ tử tu tập theo nếp sống của Cố Hòa thượng Ân sư
Hòa thượng Thiện Trí thế danh Nguyễn Diêu, sinh năm Đinh Mùi (1907) tại làng Đạo Đầu, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Công húy Hồng Ân, tự Tế Mỹ, hiệu Huyền Hưng và Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Ngạch, pháp danh Hồng Liên, tự An Thành. Ngài sinh trưởng trong gia đình theo truyền thống Phật giáo, gia đình có 5 anh chị em và ngài là con thứ hai.
Năm 12 tuổi, Ngài được song thân cho phép xuất gia với Hòa thượng Phước Hậu, trú trì chùa Linh Quang. Với tư chất thông minh hiếu học, sau 7 năm chuyên cần học đạo hầu Thầy.
Năm Ất Sửu (1925), Ngài được Bổn sư cho thọ Sa-di giới tại Giới đàn Từ Hiếu do Tổ sư Tâm Tịnh làm Đường đầu. Ngài đặc biệt có năng khiếu về văn chương, thi phú nên được Bổn sư cho đến chùa Tra Am cầu học với Hòa thượng Viên Thành.
Năm Nhâm Thân (1932), Ngài được thọ Tỳ-kheo giới tại Giới đàn Từ Vân ở Đà Nẵng do Hòa thượng Phước Trí chùa Tam Thai làm Đường đầu Hòa thượng. Trong giới đàn này, Ngài là vị Thủ Sa-di. Được dự vào hàng Chúng trung tôn, Ngài thuộc đời thứ 43 dòng Thiền Lâm Tế và là thế hệ thứ 9 của Pháp phái Liễu Quán, có Pháp danh là Tâm Thái và Pháp hiệu là Thiện Trí. Trên bước đường tu học, Ngài không những được Bổn sư chỉ giáo mà còn được nhiều bậc Cao tăng thạc đức ân cần dìu dắt. Sau sự ra đi của Hòa thượng Viên Thành, Ngài đau đớn, trống vắng khi mất đi một bậc Ân sư mà Ngài hằng kính quý. Tiếp tục con đường tham vấn, Ngài đã đến cầu học với Hòa thượng Giác Viên chùa Hồng Khê.
Một nhân duyên chớm nở trong bước đầu hành đạo, năm Quý Dậu (1933), Ngài đã thể theo ước nguyện của một số Phật tử ở Sài Gòn, thỉnh Ngài vào Nam để dạy Phật pháp cho họ. Trong dịp này Ngài đã gặp được Cụ Phan Khôi, một nhà thơ mới, một học giả nổi tiếng đương thời. Cuộc gặp gỡ này Ngài thường cho đó như một tiền duyên tao ngộ. Con đường văn chương thi phú của Ngài trở nên thông bác cũng nhờ sự tận tâm chỉ bày của cụ Phan Khôi.
Thời gian ở Nam không lâu khi nghe tin tại quê nhà các Pháp lữ đều vào Bình Định cầu học với Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp, Ngài đã trở về quê rồi lên đường vào Bình Định. Sau một thời gian tham học, Hòa thượng lại về Huế để phụng sự Bổn sư.
Con đường phụng Đạo giúp đời của Ngài được rõ nét nhất trên hai lĩnh vực là văn thơ và nghi lễ. Một tác phẩm đầu tay của Ngài được xuất bản là Phật học thiền đàm với bút hiệu là Tế Nam được nhà Chí sĩ Sào Nam Phan Bội Châu đề tựa cho tập sách này bằng bốn câu thơ:
“Ai vào bể khổ vớt quần sinh,
Ức vạn Như Lai một quyển kinh,
Lời cạn ý sâu là Phật lý,
Khơi đèn Bát nhã diệt vô minh”.
Một tập sách dùng ngôn từ giản dị mà hàm chứa ý Đạo sâu xa được quần chúng nhiệt tình đón nhận và đã tái bản.
Năm 1935, Tổng hội Phật học Việt Nam tại Trung phần ra đời. Ngài được mời vào Ban Giảng sư của Hội.
Năm 1938, Hòa thượng Bổn sư về đảm trách trụ trì Tổ đình Báo Quốc, nên Ngài phải thay Thầy trú trì chùa Linh Quang.
Năm 1940, Cụ Hiệp tá Ưng Bàng phát tâm cúng sở vườn và được một số Phật tử cúng dường tịnh tài, nên Ngài đã xây dựng ngôi chùa Hiếu Quang trên mảnh đất này.
Năm 1945, Ngài đã chuyển chùa Linh Quang cho Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên Huế làm nơi đào tạo Tăng tài và là cơ sở cho Tăng già sinh hoạt, Ngài trở về sống nhàn tịnh suốt đời nơi ngôi chùa Hiếu Quang khiêm tốn này. Chùa Hiếu Quang từng đã là nơi ngâm thơ, uống trà của Mai Lâm thi đàn mà Ngài là Giám đàn.
Ngài có nếp sống trầm mặc, ưa cảnh thanh bần đạm bạc, bản chất lại khẳng khái bộc trực, thường giao hiếu với văn nhân trí thức. Ngoài kiến thức Phật học, Ngài còn tinh tường về các thể thơ, đối liễn và cổ nhạc. Đối với nghi lễ Phật giáo, Ngài am hiểu cả Thuyết lẫn Tông; lại có một âm thanh kỳ đặc, là một bậc nghi lễ siêu đẳng như Hòa thượng chùa Châu Lâm tán thán: “Phạm âm vi diệu, liên xã đồng hoan”.
Trong con người nhàn tịnh ấy, Ngài lại có một nỗi lòng ưu thời mẫn thế và đã giải bày hạnh nguyện lợi sinh của mình qua những ca khúc, những vần thơ, câu đối.
Như trong ca khúc Nam ai, Ngài đã tán dương ngày Phật đản sinh; trong điệu Tứ đại cảnh, Ngài dùng lời hướng dẫn mọi người quay về Tịnh độ, xa đời ngũ trược; Khúc ca Nam bình, Ngài có lời nêu cao tinh thần yêu nước thương nòi, bảo vệ giang sơn gấm vóc.
Trong tình Pháp lữ, Ngài luôn tán dương tùy hỷ, như qua câu đối tặng Hòa thượng Trí Thủ:
“Trung kiên trác tích, vạn hạnh viên dung, nhậm vận tùy cơ hoằng đại đạo;
Nam độ ứng thân, tam căn phổ nhiếp, lưu thông phú cảm giác quần sinh”.
Là một Đạo sĩ thường huân tu Phật pháp nên hành, trú, tọa, ngọa đều là đạo cả. Qua một bữa ăn chiều, Ngài đã ứng khẩu thành thơ nói lên sự lợi ích của an bần, của thiểu dục như:
“Sống đơn sơ là thấy khỏe tâm hồn,
Khỏi nặng bụng bởi mùi đời lộn xộn,
Không cao lương khỏi bận phiền cùng đốn,
Không ngon mồm khỏi vướng nợ sinh linh.
Đặng thanh tâm cho tuệ mạng trưởng thành,
Dễ tiêu hóa những nỗi niềm tham vọng.”
Trong cái nhàn tịnh như lánh đời thì nhiệt tâm vì đạo pháp và dân tộc bao giờ cũng nóng bỏng trong lòng Ngài.
Năm Đinh Tỵ (1977) và năm Tân Sửu (1981), Giáo hội tổ chức hai Đại giới đàn tại Tổ đình Báo Quốc, Ngài đều tham gia vào ngôi vị Tôn chứng. Năm 1982, Giáo hội suy tôn Ngài lên ngôi vị Hòa thượng và là hàng Giáo phẩm Chứng Minh của Giáo hội.
Ngài đã đóng góp cho Đạo và để lại cho đời những thành quả tốt đẹp về nghi lễ. Ngài đã làm trong sáng hóa và đậm nét nghệ thuật vị nhân sinh của nền nghi lễ Phật giáo. Bằng con đường này, Ngài đã xoa dịu biết bao nỗi đau của trần thế.
Thời gian cuối đời: Trong những năm tháng khi tuổi ngoại cửu tuần, thân già sức yếu nhưng trí tuệ Ngài luôn minh mẫn, bao giờ cũng sách tấn kẻ hậu học. Mỗi lần xuân đến, hạ mãn, chư Tăng trong Giáo hội đến đảnh lễ vấn an chúc thọ Ngài, song không bao giờ Ngài cho lễ lạy. Ngài lân mẫn ân cần chỉ dạy, khi nào cũng quan tâm đến tiền đồ của Đạo pháp. Bất cứ một sự việc gì xảy đến với Giáo hội Ngài cũng đều biết rõ và rất ưu tư. Ngài rất hoan hỷ khi nghe trình lên những thành tựu của Giáo hội và bao giờ cũng với những lời sách tấn, an ủi và ngợi khen.
Ngài thu thần thị tịch vào lúc 4 giờ sáng ngày 9 tháng 01 năm Canh Thìn, tức ngày 13 tháng 02 năm 2000, hưởng thọ 93 tuổi đời và 68 Hạ lạp.
Một số hình ảnh ghi nhận:

Chư Tôn đức Chứng minh đảnh lễ tưởng niệm





Thượng tọa Thích Lương Nguyên thực hiện nghi lễ Cúng Ngọ









