Ni trưởng Minh Bổn, thế danh Trương Thị Mai Hương, sinh ngày 19.02.1935 (Ất Hợi), tại làng Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Song thân là cụ ông Trương Đình Tùng và cụ bà Ngô Thị Gia.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, nhưng năm lên bảy, Ni trưởng đã chịu đau buồn với cảnh mồ côi. Cha mẹ đều từ trần, Ni trưởng lớn lên trong sự ấp ủ của Bà Nội và tình thương yêu đùm bọc của người anh trai.
Năm mười tuổi lại phải rời hơi ấm của Bà Nội, xa quê sống bên anh, lúc ấy anh vào Phú Yên làm thư ký tòa Khâm sứ Pháp. Cuộc sống ổn định chưa được bao lâu thì đất nước bị chiến tranh. Ni trưởng theo anh tản cư, trôi lăn nơi xứ lạ quê người, bỏ dỡ việc học hành, mãi đến năm 1953 mới trở lại quê nhà.
Tuổi hoa niên của Ni trưởng bị đè nặng trước bao cảnh đau thương của gia đình, của quê hương, đã cho Ni trưởng một nhận biết về nỗi khổ của cuộc đời, do đó khi biết đạo lại càng hướng tâm sâu hơn. Ni trưởng đã là một huynh trưởng gương mẫu của Gia đình Phật tử Đại Lộc, trên cương vị ấy, Ni trưởng đã hăng hái cố gắng học tập Phật pháp, theo học nhiều khóa giáo lý do thầy Đức Trạm tổ chức. Được thấm nhuần ý đạo và ươm mầm tinh thần áo lam Gia đình Phật tử, Ni trưởng đã hướng tâm đến chân trời cao rộng hơn. Tâm niệm tìm cầu an lạc giải thốt đã đến, và lần này rời quê hương để hướng thẳng về chốn Tòng lâm. Đến cố đô Huế nơi Ni viện Diệu Đức cầu xuất gia với Ni trưởng Thể Yến.
Ni trưởng với bản chất cần mẫn, hiền hòa, với tâm thiết tha học đạo, nên chỉ sau một năm tập sự xuất gia, Ni trưởng đã được Bổn sư cho thế phát quy y với pháp danh Nguyên Khánh.
Năm 1956, Ni trưởng được thọ Sa-di-ni giới với pháp tự Minh Bổn.
Năm 1959, Ni trưởng thọ Thức Xoa-ma-na và đến năm 1965 thọ Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới tại Đại giới đàn Vạn Hạnh tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu (1965).
Là một Ni sinh sáng dạ tinh cần, nên đã được Ni viện cho theo học các lớp Liễu Quán tại chùa Linh Quang, Huế và tại Ni viện Diệu Quang, Nha Trang.
Năm 1969, vâng lệnh Hòa thượng Bổn sư, Ni trưởng trở về Huế đảm nhận việc giảng huấn tại Ni viện Diệu Đức, và đến năm 1975 Ni trưởng được giao trọng nhiệm đảm trách cơ sở Hương Sơn giữa một giai đoạn khó khăn. Bằng vào tính năng động linh hoạt, Ni trưởng đã dần dần xây dựng Hương Sơn thành một Tịnh thất rồi trở thành một ngôi chùa như hiện nay. Tiến trình này luôn được nhịp nhàng với từng bước đào tạo nhân sự. Tấm lòng thương lo dìu dắt đệ tử quả là một điểm sáng trong cuộc đời của Ni trưởng. Với đệ tử bao giờ Ni trưởng cũng dùng những lời dịu ngọt nhưng không thiếu phần quả quyết nghiêm nghị, luôn sống hòa đồng, ít thấy có phân biệt về đời sống vật chất. Thầy trò cùng chia ngọt sẻ bùi, biết dang rộng cánh tay của vị Thầy đùm bọc thương yêu các đệ tử bằng tâm không phân biệt. Bởi vậy Ni trưởng đã tiếp độ nhiều đệ tử và nuôi dạy nhiều vị khá thành đạt về Học cũng như Hạnh.
Với Phật tử, ngôi chùa Hương Sơn đã là một tụ điểm sinh hoạt cho nhiều đồn như Tu Xà Đề, Lộc Uyển, Ni Liên Thuyền, Từ Bi Sứ Giả. Hình ảnh Ni trưởng đối với họ là một người Thầy, người Mẹ, người Chị thật thân gần và khả kính.
Đối với Giáo hội, Ni trưởng luôn là người con hiếu kính, đối với các bậc Tôn trưởng, luôn tinh tấn trong mọi Phật sự của Giáo hội giao phó.
Năm 1982, Ban Trị sự tỉnh Bình Trị Thiên được hình thành, Ni trưởng là Ủy viên Thủ quỹ và vẫn tiếp tục nhiệm vụ ấy qua các nhiệm kỳ của Ban Trị sự cho đến ngày cuối đời. Trong các giới đàn của Ni bộ tổ chức trong các năm 1970, 1975, 1981, Ni trưởng đều đảm trách chức vụ dẫn thỉnh, và những giới đàn sau này Ni trưởng đều được thỉnh vào hàng Tôn chứng.
Trong sự nghiệp hoằng truyền Phật pháp, Ni trưởng là một trong những vị giảng sư xuất sắc, đã góp phần vào sự nghiệp hoằng pháp của Giáo hội. Không một nơi nào Phật tử có nhu cầu giảng pháp hay Giáo hội cắt cử mà Ni trưởng từ nan. Từ những đạo tràng ở Từ Đàm, các niệm Phật đường trong thành phố, cho đến các khuôn hội xa xôi của vùng duyên hải và nông thôn, đâu đâu cũng vang vọng lời chỉ dạy từ hòa của Ni trưởng, với tổ chức Gia đình Phật tử Ni trưởng có nhiều nhân duyên hơn, bởi vậy trong các trại huấn luyện huynh trưởng, trong các ngày Hạnh ngành Nữ Gia đình Phật tử, Ni trưởng thường có mặt, sự có mặt của Ni trưởng là bậc Huynh trưởng để vỗ về dìu dắt đàn em.
Cuộc đời của Ni trưởng còn là môt thể hiện hài hòa của Đạo và Đời, Ni trưởng đã tiếp nối Cố Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, đã tham gia Ban chấp hành Hội Phụ nữ Việt Nam và Hội Phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cuộc đời nhất hướng tu hành của Ni trưởng từ tuổi thành niên còn học hành cho đến tuổi trưởng thành ra làm Phật sự, dù công việc đến đâu và hồn cảnh nào đi nữa đối với hai pháp môn mà Ni trưởng đã phát nguyện hành trì thì lúc nào cũng miên mật, đó là Giới luật và Tịnh độ.
Về Giới luật thì tư tưởng, hành vi, ngôn ngữ, giao tiếp Ni trưởng luôn tế nhị từ ái, trang nghiêm trong mọi ứng xử.
Về Tịnh độ thì lúc nào cũng không rời Hồng danh của Đức Phật A Di Đà, nhất là trong thời gian thân bệnh thì Ni trưởng lại càng dùng hết thời gian cho niệm Phật, hạn chế sự tiếp xúc và Phật tử đến thăm Ni trưởng đều khuyên nên tinh tấn nhất tâm niệm Phật đó là quý vị thương Sư và thương quý vị, hơn là buồn rầu làm gì?
Ni trưởng là hình ảnh của sự tận tụy, trong lúc thân đã nhuốm bệnh Ni trưởng cố gắng tuân hành chỉ đạo của Giáo hội tham dự Đại hội kỳ IV GHPGVN tại Thủ đô Hà Nội. Ngờ đâu sự góp mặt trong ngày hội lớn ấy của Giáo hội, cơn bệnh của Ni trưởng ngày càng bột phát, mặc dầu đã được y bác sĩ của Bệnh viện Trung ương Huế, quý vị y bác sĩ Đông, Tây y Tuệ tĩnh đường Diệu Đế tận tình chữa trị, hàng môn đồ đệ tử hết lòng chăm sóc hầu hạ, song cơn vô thường đã phải đến, Ni trưởng đã nhẹ nhàng ra đi vào lúc 21 giờ ngày 30 tháng 4 năm Mậu Dần (1998) trước sự hộ niệm đông đủ của Tăng Ni Phật tử, hưởng thọ 63 tuổi đời và 33 hạ lạp.