menu_open

Lịch sử Phật giáo

Tìm hiểu Thiền sư Từ Đạo Hạnh qua văn khắc chuông chùa Thầy (Thiên Phúc tự)
Xem cỡ chữ:
Thiền sư Đạo Hạnh là một danh sư đời Lý, có công lớn đối với triều đình. Công đức của ngài được ghi lại nhiều trong Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử lược, Ðại Việt sử ký toàn thư, An Nam chí lược v.v...
Tìm hiểu Thiền sư Từ Đạo Hạnh qua văn khắc chuông chùa Thầy (Thiên Phúc tự)
Tìm hiểu Thiền sư Từ Đạo Hạnh qua văn khắc chuông chùa Thầy (Thiên Phúc tự)
   
image Một góc chùa Thầy. Ảnh: Chí Tín
  An Nam chí lược viết rằng: "Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một nho sinh, thích thổi sáo, ngày cùng bạn đi chơi khắp nơi, đêm đọc sách suốt sáng. Một hôm vào chơi núi Phật Tích, thấy một hòn đá có dấu chân bên phải, ấn chân vào so thử, in như hệt. Về nhà từ biệt cha mẹ vào núi cất am tu hành. Vua Lý chưa có con nối dõi, khiến các thầy chùa danh tiếng cầu đảo. Có một ông sư, không đến làm lễ cầu tự cho vua mà còn dùng phép trám yểm. Vua nghe được bèn hạ ngục tất cả các thầy chùa trong vùng. Nhờ có một hoàng tử, hết lòng cứu giúp mới khỏi. Hoàng tử nói với sư rằng: "Ta cũng không có con, xin sư vì ta mà cầu đảo". Sư nói với hoàng tử bảo với phu nhân vào phòng tắm rửa, sư đi ngang cửa phòng, phu nhân liền có thai. Đến ngày hạ sinh, hoàng tử cho mời sư đến, thì sư đã mất trong núi. Phu nhân sinh được một trai, mặt mũi khôi ngô. Vua Lý lập làm Thái tử…". Chuyện này khá trùng hợp với chính sử ghi trong sách Đại Việt sử lược, thì vị hoàng tử này là Sùng Hiền Hầu, em vua Lý Nhân Tông. Sau vua Lý Nhân Tông vì không có con, nên nhường ngôi cho con của Hầu, tên là Dương Hoán, là vua Lý Thần Tông sau này.

Thiền uyển tập anh, chép: "Thiền sư Đạo Hạnh (? - 1117) ở chùa Thiên Phúc 天福寺, núi Phật Tích 佛跡, họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan Đô Án, thường đi học tại làng An Lãng. Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ…". Cuộc đời của sư thần bí, thường ngao du cầu sư học đạo, tu và mất ở chùa Thiên Phúc. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì “chùa Phật Tích ở xã Thụy Khê, huyện Yên Sơn, một tên khác là núi Sài. Phong cảnh đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ, trên núi có hang sâu là chỗ Từ Ðạo Hạnh mất. Vách hang còn có dấu đầu và dấu chân. Trên đó có am Hương Hải và viện Bồ Ðà đều do Thiền sư dựng nên, nay là chùa Thiên Phúc...”. Chùa Thiên Phúc, theo Đại Việt sử lược, phần Lý kỷ thì chùa do vua Lý Thánh Tôn xây vào năm Đinh Dậu Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057). Theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Ðôn, phần Phong vực (bờ cõi) thì “chùa tọa lạc ở núi Sài (Sài sơn) thuộc huyện Yên Sơn, núi này đời Lý gọi là Bồ Ðà Lạc, đời Trần gọi là núi Phật Tích. Trên núi có động tiên và chùa, trong núi có tám chỗ lõm, như dấu chân người va chạm vào, lại có dấu chân như của người khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên Phúc, trước có hồ nước lớn, sau có lầu chuông, có chuông do Thiền sư Ðạo Hạnh đúc thành vào năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109) đời Lý Nhân Tông, do đệ tử Huệ Hưng soạn ra văn khắc trên chuông... Chùa Thiên Phúc tên Nôm là chùa Thầy, còn gọi là Tử Trầm sơn, tọa lạc tại chân núi Sài, tức núi Phật Tích, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay là tỉnh Hà Nội ).

Văn khắc chuông chùa Thiên Phúc dưới đây là một tư liệu rất quý nói về công đức hoằng pháp Phật giáo của thiền sư Từ Ðạo Hạnh. Nhận thấy đây là tư liệu có giá trị, chúng tôi giới thiệu nội dung bài minh này để độc giả tham khảo.

Nguyên văn chữ Hán:

[山西處國威府安山縣瑞圭杜佛蹟山]

天福寺洪鐘銘文

維龍符元化九年己丑正月、道行禪師緣化巨越國、朱門白屋、人人喜供、獲赤銅貳千餘斤、鑄洪鐘一口、懸於蒲陀落山香海院內、扣擊六時行道、上報四恩、下濟三塗者。
夫妙理雖一、妄境寔繁、稟雖一而萬化生成、隨萬化而惟一圓點、無形可測、無語可諳、無形而形遍大千、無語而語周億剎、窄不為礙、雜不為緇、在纖塵而花藏莊嚴、居濁劫而圓珠瑩徹、是眾生之幸意、非諸佛之別心、覺也者、一路涅槃,迷也者、六趣生滅、由是自相悲憫、假相殊倫、聖賢服如蟻慕羶、神力化如風偃草、亟職芒昧、邪病纏綿、演古教而導矣、定未齊知,俾信器而警焉、方能漸進、其教也、依根立說、以一乘而括囊,其器也、取象成名、以洪鐘為鈐轄。

鐘者、外示圓寔、內表含虛、其圓也、常用而靡覺,其寔也、取難壞之名,其含也、諸入而勿礙,其虛也、揚無盡之意、不如是、何佛命一叩、天雷吞聲、地籟收響、即三界返悟;幸智乃三塗纘諸苦真、豈越列不以事濟天下耶、洎後欣光結席、承撻而淨眾駢羅,慶喜登猊、依擊而說法嚴備、自茲、孰能繼者、是真可矣。

而今即有道行禪師、幼而秀骨、長乃奇姿、誦習蓮經、玉戛喉而嘹喨,出家運度、佛生意而慈悲、建八種而海寓盡嚴,究三篋而禪經共貫、覯時大旱、燃一指而雨霈然、斅古休糧、坐多年而容無饑色、萬民起厲、持水洒而幸絕病源,諸事未萌、預言知而的如符契、經曰:「佛有八辨」、非師而不繼圓音、佛制尸羅、非師而不能堅固、帝釋福田、非師而不播雄馨、藥王燒臂、非師而不奈苦誠、觀音救難、非師而不紹功名、高僧顯異、非師而不踵神靈」。

然濟機云畢、擇處栖遲、出城西而耳斷喧、歷禍路而心自淨、越一江水、見一山青、掉石而步落俗塵、捫蘿而身登上界、其山也、聳稜(楞)伽之繞、生寶月之秋、有奇尺梯、八圓龕、石龕也、五色雲成就、七珠寶纍垂、蛛網相聯、銖衣間綵、下存佛跡、中壯倪臺、其跡也、白玉在底、青龍盤外,其臺也、犀角鎮傍、燈釭連次、豈模仗室、即模鷲峰、昔隱者功德所成、豈神靈造化所異、師居未逾旬、事還感應、野虎來伏、山虯自馴、寂寞夜而誦蓮經、穹崇天而送花鼓、處周六載、惠普積千、諸王子之車馬響風、傾國人之香花頂禮、御書赍詔、法席降臨、賜寶衣而等上朋、陟佛車而牟四果、齋罷之日、金錫迴立於山腳、弟子各伸其言意、雷同曰:「岩巔峭直、雲路歌(敧)危、師神足之易登、客凡蹤之難步、唯占下土、亦合勝方、巒屈曲而豈異蒲陀、水澄徹而何殊香海」、命其良匠、揆彼中央、構玉宇而晃四維、坐金容而光有截、眾馳斯語、樹即揚聲、片時而士女親來、不日而境界便現、採梓杞木、陶碧瓦爐、繩墨縱橫、斤斧雜遝、峨峨新院、業業巍樓、裁 (栽) 松而徑引清涼、藝化而景延馥郁。

師乃曰:「斯堂秩秩、就眾森森、不免說法之筵、必掛洪鐘之警、法雖自我、鐘必從他」、故築 (策) 仗 (杖) 化、高於阡陌、如麟遊獸舞、逐鳳翔凰、競隨行未兩旬、施堆一阜、詣於興福寺、章飛雲陛、天錫金宮、鍊土成模、揚火精鍛、鑄之日、師雖緘默、人競稱揚、感太后之同風、遣中使之赍室、次乃輪蹄奔而空朱戶、少艾走而閴(闃)閭 閻、擅入香階、紛若東市、頃、火工肆力、金匠嚴令、鼓橐籥而聲振海隅、迸煙爐而光騰銀漢、完器有異、嘉瑞相生、未幾者、更邀庶類、抗縻巨扛、纔礱而色奪雪 花、乍擊而聲逾雷吼、天下聆之、人咸慶仰、師將歸蒲陀岩畔大悲雲樓、懸以金索、撞以鯨槌、旦夕行道、先報今上永化、寶祚長新、感國器而世蕃昌、字黎元而邦 彌泰、然願崇高慕道、洞達純真、以福蔭於蒼生、用匡扶於洪業、後冀施修巨細等、順風遷善、頂戴香花、今景祿來茨、後悟符本覺。

師見余曰:「新成犍稚一口、則眾緣同修、我罔績可紀、留芳施者名、聊記傳後」、惠興淺學、不辭搦管為銘。銘曰:

佛以洪鐘警物兮、悟本心

師成法器化世兮、發信音

天宮既著欲色兮、還自覺

地府當要刑戮兮、放若深

龍符元化九年己丑、八月、初九日立記、天福寺賜紫大沙門釋惠興撰。

Phiên âm:

Sơn Tây xứ, Quốc Oai phủ, An Sơn huyện, Thụy Khuê xã, Phật Tích sơn.

Thiên Phúc tự, hồng chung minh văn

Duy Long Phù nguyên hóa cửu niên Kỷ Sửu chính nguyệt, Đạo Hạnh thiền sư duyên hóa cự Việt quốc, chu môn bạch ốc, nhân nhân hỷ cúng, hoạch xích đồng nhị thiên dư cân, chú hồng chung nhất khẩu, huyền ư Bồ Đà Lạc sơn Hương Hải viện nội, khấu kích lục thời hành đạo, thượng báo tứ ân, hạ tế tam đồ giả.

Phù diệu lý tuy nhất, vọng cảnh thực phồn, bẩm tuy nhất nhi vạn hóa sinh thành, tuỳ vạn hóa nhi duy nhất viên điểm, vô hình khả trắc, vô ngữ khả chư, vô hình nhi hình biến đại thiên, vô ngữ nhi ngữ chu ức sái, chá bất vi ngại, tạp bất vi tri, tại tiêm trần nhi hoa tạng trang nghiêm, cư trọc kiếp nhi viên châu oánh triệt, thị chúng sinh chi hạnh ý, phi chư Phật chi biệt tâm, giác dã giả, nhất lộ niết bàn, mê dã giả, lục thú sinh diệt, do thị tự tướng bi mẫn, giả tướng thù luân, thánh hiền phục như nghị mộ chiên, thần lực hóa như phong yển thảo, cức chức mang muội, tà bệnh triền miên, diễn cổ giáo nhi đạo hỹ, định vị tề tri, tỉ tín khí nhi cảnh yên, phương năng tiệm tiến, kì giáo dã, y căn lập thuyết, dĩ nhất thừa nhi quát nang, kì khí dã, thủ tượng thành danh, dĩ hồng chung vi kiềm hạt.

Chung giả, ngoại thị viên thực, nội biểu hàm hư, kì viên dã, thường dụng nhi mỵ giác, kỳ thực dã, thủ nan hoại chi danh, kỳ hàm dã, chư nhập nhi vật ngại, kỳ hư dã, dương vô tận chi ý, bất như thị, hà Phật mệnh nhất khấu, thiên lôi thôn thanh, địa lại thu hưởng, tức tam giới phản ngộ, hạnh trí nãi tam đồ toản chư khổ chân, khởi việt liệt bất dĩ sự tế thiên hạ da, kỵ hậu hân quang kết tịch, thừa thát nhi tịnh chúng biền la, khánh hỷ đăng nghê, y kích nhi thuyết pháp nghiêm bị, tự tư, thị chân khả hỹ.

Nhi kim tức hữu Đạo Hạnh thiền sư, ấu nhi tú cốt, trưởng nãi kỳ tư, tụng tập liên kinh, ngọc giát hầu nhi liêu lượng, xuất gia vận độ, Phật sinh ý nhi từ bi, kiến nhập chủng nhi hải ngụ tận nghiêm, cứu tam niệp nhi thiền kinh cộng quán, cấu thời đại hạn, nhiên nhất chỉ nhi vũ bái nhiên, hộc cổ hưu lường, tọa đa niên nhi dung vô cơ sắc, vạn dân khởi lệ, trì thủy sái nhi hạnh tuyệt bệnh nguyên, chư sự vị manh, dự ngôn tri nhi đích như phù khế, kinh viết: “Phật hữu bát biện”, phi sư nhi bất kế viên âm, Phật chế Thi La, phi sư nhi bất năng kiên cố, Đế Thích phúc đường, phi sư nhi bất bá hùng thanh, Dương Vương thiêu tý, phi sư nhi bất nại khổ thành, Quan Âm cứu nạn, phi sư nhi bất thiệu công danh, cao tăng hiển dị, phi sư nhi bất chàng thần linh.

Nhiên tế cơ vân tất, trạch xứ thê trì, xuất thành tây nhi nhĩ đoạn huyên, lịch họa lộ nhi tâm tự tịnh, việt nhất giang thủy, kiến nhất sơn thanh, trạo thạch nhi bộ lạc tục trần, môn la nhi thân đăng thượng giới, kỳ sơn dã. Tủng lăng già chi nhiễu, sinh bảo nguyệt chi thu, hữu kỳ xích thê, nhập viên khám, thạch khám dã, ngũ sắc vân thành tựu, thất châu bảo luỵ thuỳ, châu võng tương liên, thù y gian thể, hạ tồn Phật tích, trung tráng nghê đài, kỳ tích dã, bạch ngọc tại để, thanh long bàn ngoại, kỳ đài dã, tê giác trấn bàng, đăng hồng liên thứ, khởi mô trượng thất, tức mô Thứu phong, tích ẩn giả công đức sở thành, khởi thần linh tạo hóa sở dị, sư cư vị du tuần, sự hoàn cảm ứng, dã hổ lai phục, sơn cầu tự tuần, tịch mịch dạ nhi tụng liên kinh, khung sùng thiên nhi tống hoa cổ, xứ chu lục tải, huệ phổ tích thiên, chư vương tử chi xa mã hưởng phong, khuynh quốc nhân chi hương hoa đính lễ, ngự thư tê chiếu, pháp tịch giáng lâm, tứ bảo y nhi đẳng thượng bằng, trắc Phật xa nhi mâu tứ quả, trai bãi chi nhật, kim tích hồi lập ư sơn cước, đệ tử các thân kỳ ngôn ý, lôi đồng viết: “Nham điên tiêu trực, vân lộ ca nguy, sư thần túc chi dị đăng, khách phàm tung chi nan bộ, duy chiêm hạ thổ, diệc hợp thắng phương, loan khuất khúc nhi khởi dị bồ đà, thuỷ trừng triệt nhi hà thù hương hải”, mệnh kì lương tượng, bát bỉ trung ương, cấu ngọc vũ nhi hoảng tứ duy, tọa kim dung nhi quang hữu triệt, chúng trì tư ngữ, thụ tức dương thanh, phiến thời nhi sĩ nữ thân lai, bất nhật nhi cảnh giới tiện hiện, thái tử dĩ mộc, đào bích ngoã lô, thằng mặc tung hoành, cân phủ tạp đạp, nga nga tân viện, nghiệp nghiệp nguy lâu, tài tùng nhi kính dẫn thanh lương, nghệ hóa nhi cảnh diên phức úc.

Sư nãi viết: “Tư đường trật trật, tựu chúng sâm sâm, bất miễn thuyết pháp nhi diên, tất quải hồng chung chi cảnh, pháp tuy tự ngã, chung tất tòng tha”, có trúc trượng hạ hóa, cao ư thiên mạch, như lân du thú vũ, trục phượng tường hoàng, cạnh tuỳ hành vị lưỡng tuần, thi đôi nhất phụ, nghệ ư Hưng Phúc tự, chương phi vân bệ, thiên tích kim cung, luyện thổ thành mô, dương hoả tinh đoàn, chú chi nhật, sư tuy châm mặc, nhân cạnh xưng dương, cảm thái hậu chi đồng phong, khiến trung sứ chi tê thất, thứ nãi luân đề bôn nhi không chu hộ, thiếu ngải tẩu nhi xú diêm lư, thiện nhập hương giai, phân nhược đông thị, khoảnh, hỏa công tứ lực, kim tượng nghiêm linh, cổ thác dược nhi thanh chấn hải ngung, biền yên lô nhi quang đằng ngân hán, hoàn khí hữu dị, gia thuỵ tương sinh, vị kỉ giả, cánh yêu thứ loại, kháng mị cự công, tài lung nhi sắc đoạt tuyết hoa, sạ kích nhi thanh du lôi hống, thiên hạ linh chi, nhân hàm khánh ngưỡng, sư tương quy bồ đà nham bạn đại bi vân lâu, huyền dĩ kim sách, chàng dĩ kình truỳ, đán tịch hành đạo, tiên báo kim thượng vĩnh hóa, bảo tộ trường tân, cảm quốc khí nhi thế phồn xương, tự lê nguyên nhi bang di thái, nhiên nguyện sùng cao mộ đạo, động đạt thuần chân, dĩ phúc ấm ư thương sinh, dụng khuông phù ư hồng nghiệp, hậu ký thí tu cự tế đẳng, thuận phong thiên thiện, đính đái hương hoa, kim cảnh lộc lai tư, hậu ngộ phù bản giác.

Sư kiến dư viết: “Tân thành kiện trĩ nhất khẩu, tắc chúng duyên đồng tu, ngã võng tích khả kỉ, lưu phương thi giả danh, liêu kí truyền hậu”, huệ hưng thiển học, bất từ nịch quản vi minh.

Minh viết:

Phật dĩ hồng chung cảnh vật hề ngộ bản tâm,

Sư thành pháp khí hóa thế hề phát tín âm.

Thiên cung kí chứ dục sắc hề hoàn tự giác,

Địa phủ đương yếu hình lục hề phòng nhược thâm.

Long Phù nguyên hóa cửu niên Kỷ Sửu bát nguyệt sơ cửu nhật lập kí,

Thiên Phúc tự tứ tử đại sa môn Thích Huệ Hưng soạn.

Dịch nghĩa:

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc

Văn khắc trên chuông chùa Thiên Phúc, ở núi Phật Tích, xã Thụy Khê, huyện An Sơn, Phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây.

Tháng giêng năm Kỷ Sửu nhằm vào năm thứ 9 (1109) niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa, Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Đại Việt. Mọi người từ giàu đến nghèo, ai ai cũng vui vẻ cúng dường. Quyên được đồng đỏ tất cả hơn hai ngàn cân. Đúc được một cái chuông lớn, treo trong viện Hương Hải ở núi Bồ Đà Lạc, sáu thời đánh chuông hành đạo, trước báo bốn ơn, sau cứu tam đồ.

Diệu lý tuy chỉ có một mà vọng cảnh [8] thì thật nhiều. Tuy là một nhưng do thiên biến vạn hoá tạo thành. Dù thiên biến vạn hoá tạo thành cũng chỉ là duy nhất mà thôi, không hình tượng mà có thể lường được, không lời nói mà có thể cảm được, không hình tượng mà hiện khắp cõi đại thiên, không lời nói mà nghe vang khắp cõi Phật. Nhỏ bé mà không cùng, hỗn độn mà không hóa thành đen, ở đời trần bụi mà trang nghiêm như Hoa Tạng thế giới, ở kiếp ô trược mà long lanh như ngọc thạch. Đó là sự may mắn của chúng sinh, chứ chẳng phải ý riêng gì của chư Phật. Kẻ giác ngộ thì thẳng đường lên Niết Bàn, còn kẻ mê lầm thì sinh diệt theo Sáu con đường. Rồi thì cứ lo lắng, giả tưởng thì nhiều. Việc thánh hiền sánh như kiến tìm mùi tanh. Chuyện thần lực cũng như gió đè cỏ mọc. Cứu mê tăm tối, bận rộn lăn lóc với những công việc cấp bách, lại phải vương mang vào tà ma, bệnh tật. Đem lời cổ nhân ra dạy bảo cũng khó làm được. Nay dùng chuông làm vật cảnh tỉnh, mới có thể có hiệu quả dần dần. Việc giáo hóa thì phải tùy căn cơ mà tìm phương cách. Thấy giáo lý "Nhất Thừa" là hơn cả, mà chuông là vật quan hệ nhất.

Chuông, ngoài Tròn, Chắc trong Rỗng, Không. Thường sử dụng, quá quen nên hay quên nên gọi là Tròn. Khó bị hư nên gọi là Chắc. Đem vật thọc vào, đổ chứa vào mà không trở ngại gì nên gọi là Rỗng. Ngân nga vang vọng nên gọi là Không. Nếu không phải thì sao Phật cho gõ một tiếng mà sấm trời im bặt, mọi âm vang trên mặt đất đều lặng câm. Đó là lúc trong Tam Giới tỏ ngộ. May mắn biết rằng chúng sinh trong Tam Đồ mãi chịu khổ. Biết như vậy mà không đem sức mình ra để cứu thiên hạ hay sao? Từ đó về sau, mỗi khi gặp lễ, đèn treo, chỗ sắp, nghe tiếng chuông Phật tử sắp thành hàng. Bước lên bệ gióng chuông thuyết pháp bội phần trang nghiêm. Làm được như vậy, có ai hơn được!

Nay có thầy Đạo Hạnh, từ bé cho đến lớn, cốt cách lạ thường, Tụng học kinh Liên sang sảng. Xuất gia hành đạo, thấm nhuần ý Phật từ bi. Xây tháp trang nghiêm. Học kinh kệ thấm nhuần đạo lý. Gặp lúc trời hạn, vung tay một cái trời mưa xuống dầm dề. Học thói người xưa nhịn ăn, ngồi nhiều năm mà vẻ mặt không thấy đói. Dân gặp lúc bịnh dịch, phẩy nước lạnh thì bịnh lành ngay. Việc chưa xảy ra mà đoán biết trước như có phù phép. Kinh dạy rằng Phật có "Tám Lời", nếu không có thầy thì làm sao Tám Lời âm vang tiếp tục. Phật đặt ra "Thi La", nếu không có thầy thì làm sao "Thi La" bền vững. Nếu không có thầy thì làm sao thắp được hương trong vườn phúc của Đế Thích. Dược Vương đốt thịt chữa bệnh, nếu không có thầy thì ai chịu đựng nổi. Quan Âm cứu nạn, nếu không có thầy thì ai biết đến công đức của ngài. Cao tăng tỏ việc linh dị, nếu không có thầy ai nối gót thần linh?

Nay chuyện hành đạo đã xong, muốn tìm nơi ẩn náu. Ra phía tây kinh thành, nơi tĩnh mịch xa, chốn ồn ào huyên náo, đi qua đường lối hiểm nghèo nhưng lòng thanh tịnh. Qua khỏi con sông, gặp núi xanh, leo đường dốc đi lên, đất đá rơi xuống lăn lóc, nắm dây trèo lên nơi cao. Núi này cao ngút bao bọc như núi Lăng Già, có trăng thu tròn đẹp, có dốc đá kỳ vĩ, có vòm đá, động đá thờ Phật, có mây ngũ sắc kết tủa như châu ngọc buông rèm, rực rỡ tơ vương đan hình vào nhau như màng nhện. Dưới có vết tích của Phật, giữa có đài nghê tráng lệ. Dấu Phật có ngọc trắng dưới đáy, có rồng xanh bao bọc bên ngoài. Ðài nghê có tê giác đứng trấn bên cạnh. Có đèn treo kết chuỗi thành hàng. Ðây đâu phải chỉ giống phòng phương trượng, mà chính là ngọn Thứu Phong. Ngày xưa các bậc ẩn sĩ góp sức, góp của làm nên, đâu có khác gì thần linh tạo thành? Thầy đến ở chưa tới mười ngày mà đã có điều linh ứng. Cọp tới chầu hầu, rồng kia thuần tính. Ðêm vắng tụng kinh Liên, trời cao vòi vọi vang nghe tiếng trống. Thầy ở suốt sáu năm, ân huệ vun đầy. Các hoàng tử xe ngựa tới lui tấp nập. Mọi người trong nước đến dâng hoa đảnh lễ. Vua cho người lại ban chiếu chỉ, làm tiệc chay cúng dường. Ban cho áo mão cà sa, cung nghinh như bậc thượng khách. Lên xe Phật để cầu Tứ quả. Lễ chay xong rồi, thầy chống gậy đi trở xuống chân núi. Tất cả các đệ tử mọi người cùng nói rằng: “Vách đá dựng đứng, đường đi nguy hiểm. Bước chân như thần của thầy thì đi dễ, chứ khách phàm thì làm sao bước đi được. Xem chỗ đất này cũng là nơi thắng cảnh. Ðồi núi chập chùng đâu khác gì núi Bồ Ðà. Nước trong vắt thua gì biển Hương Hải. Gọi thợ giỏi, chọn nơi chính giữa, xây lầu ngọc sáng chói bốn phương. Giữa đặt tượng Phật hào quang sáng rạng. Mọi người cùng tỏ lời nói này. Cây cỏ rì rào cùng loan tin đi. Trong chốc lát, thiện nam tín nữ tề tựu đông đúc. Chỉ trong một ngày mà quang cảnh trở nên khác lạ. Người đốn cây quý, kẻ xây lò gạch. Thước mực giăng đầy. Búa rìu chan chát. Chốc lát, sân mới nguy nga, gác lầu sừng sững. Trồng tùng xanh cho mát mẻ lối đi. Gầy hoa cảnh cho vườn thêm ngát.

Thầy nói rằng: "Chùa thì trang nghiêm, Phật tử thì đông đúc. Gặp lúc lễ lượt thuyết pháp thì phải treo chuông cảnh tỉnh. Phật pháp là chuyện của ta, nhưng chuông thì phải nhờ người". Nói rồi, chống pháp trượng ra đi, thoăn thoắt trên khắp nẻo đường, như lân vờn thú nhảy, như phượng múa rồng bay. Người ta tranh nhau đi theo, chưa tới hai mươi ngày đã quyên được (đồng đỏ) đem về chất một đống cao. Rồi đem đến chùa Hưng Phúc. Gửi thư về tâu cho vua rõ, ngài đã cho phép dựng chùa. Nhào đất làm khuông, đốt lửa luyện đồng Ngày đúc, thầy dù chẳng nói gì, nhưng người người vui vẻ huyên náo. Cám ơn Thái Hậu nhiệt tình cho người đem tặng lễ vật. Rồi thì hết cả nhà giàu đều kéo xe tới, trai trẻ cũng lũ lượt tới giúp đến nỗi xóm làng vắng vẻ. Người đến đông như đi phiên chợ đông vậy. Chẳng mấy chốc, thợ rèn gắng sức, thợ đúc lo lắng chuẩn bị, thổi ống bệ tiếng nghe vang dội, lửa đỏ cháy rực, chiếu sáng lên tới dãy ngân hà. Chuông đúc xong thấy rõ lạ thường, có nhiều điểm tốt lành. Không lâu sau đó, mời mọi người buộc thừng khiêng lên. Mới chùi mà sáng bóng tợ hoa tuyết. Vừa gõ thì tiếng ngân vang như sấm, vang dậy khắp nơi. Mọi người đều mừng rỡ thích thú. Thầy sắp trở về lầu Đại Bi trên núi Bồ Đà. Dùng dây vàng buộc treo, dùng chày kình đánh chuông, ngày đêm hành đạo. Trước, báo ân dày của Vua, cầu mong ngai vàng bền vững. Nhờ pháp khí (chuông) mà dân gian thanh bình, đất nước bình yên, con dân no ấm. Nguyện rằng đem đạo nhiệm mầu, thấu triệt thuần chân làm phúc lớn che chở cho mọi người, để khuông phò nghiệp lớn. Sau, mong cho mọi. người lớn bé cùng nương theo mà hướng đến cõi thiện, cùng theo Phật pháp. Hôm nay có được phúc lành để sau chứng ngộ.

Thầy nói với tôi rằng: "Chuông đã đúc xong, vì mọi người có duyên tu tập, còn ta chẳng có công đức gì. Hãy ghi lại tên tuổi của những người đã cúng dường để lưu truyền lại mai sau". Huệ Hưng ít học, cầm bút viết bài minh này.

Viết rằng:

Chừ Phật dùng chuông cảnh tỉnh để ngộ bản tâm

Nay thầy dùng chuông phát tín âm để răn dạy đời

Cung trời đã mang dục sắc, hãy trở về bổn giác

Âm phủ đã bắt đầu hình phạt, hãy nghĩ cho sâu xa.

Sa Môn áo tía Thích Huệ Hưng phụng soạn vào ngày mồng chín, tháng tám, năm Kỷ Sửu niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa thứ chín./.

 

Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.619-631

NGÔ THẾ LÂN - NGUYỄN QUỐC KHÁNH

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Phương tiện: 0
Xuất phát: 33